Nhà thơ Bích Khê (1916-1946), tên thật là Lê Quang Lương, sinh trưởng từ xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, trong một gia đình Nho học có truyền thống đấu tranh cách mạng. Bích Khê đã có thơ đăng ở báo Tiếng dân từ những năm 1931-1932. Cho đến cuối năm 1936 CÁC LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH VĂN HỌC (3): Cấu trúc luận. Posted on 21 Tháng Chín, 2021 by Admin. 21. Th9. Cấu trúc luận, vốn thịnh hành trong thập niên 1960 và nửa đầu thập niên 1970, được xem là một cuộc cách mạng, thậm chí, là cuộc cách mạng lớn nhất trong lãnh vực nghiên cứu văn Phát biểu kết luận tại buổi làm việc với tập thể lãnh đạo VKSND tỉnh Bình Phước và các đơn vị trực thuộc, thay mặt đoàn kiểm tra, đồng chí Phó Viện trưởng Viện cấp cao 3 Nguyễn Văn Tùng nhấn mạnh, sau 6 tháng đầu năm 2022 Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bình Phước Mối quan hệ giữa các giải pháp và biện pháp Ngoài việc cung cấp cho các em một số kiến thức về bộ môn hình học, tôi thường chú trọng đến việc rèn luyện cho các em về kỉ năng , phương pháp chứng minh đặc biệt là giúp các em vận dụng linh hoạt các định lí và Nghị luận xã hội về học phương pháp học. 8 năm ago Thu Quyên. Đề bài: “Kĩ năng đầu tiên và quan trọng nhất mà bạn cần có trong một thế giới hiện đại là khả năng học phương pháp học – nghĩa là thường xuyên tiếp thu và học hỏi những phương pháp mới để làm xL9R. 19 quyển sách phê bình văn học hay đưa ra những phương pháp luận về thi ca cùng thi sĩ, những phân tích thấu đáo về nhà văn và tác phẩm, những nhận định rất đúng đắn về văn chương và xã hội.“Những bài viết tập hợp trong cuốn sách này, trực tiếp hay gián tiếp, đều có liên quan đến vấn đề văn hóa đọc và đã được công bố trên các báo Nhân Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Sài Gòn Giải Phóng Thứ Bảy, Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ Cuối Tuần, Thanh Niên, Người Lao Động, Phụ Nữ, Pháp Luật, Nhà Văn, Quán Văn, Văn Nghệ, Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Lý luận – phê bình văn học nghệ thuật, Sài Gòn Tiếp Thị, Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần…Khi đưa vào sách, chúng tôi có lược bỏ một số đoạn trùng lặp và một vài số liệu đã mất thời gian tính. Cuốn sách gồm hai phần. Phần đầu dành cho những bài viết bàn về việc đọc sách cùng một số hiện tượng của xuất bản và tiếp nhận văn học. Phần sau là những bài viết về một số tác giả, tác phẩm văn học hiện đại mà người viết có cơ may tiếp xúc. Nhằm phục vụ kịp thời cho báo chí, những bài viết trong tập này thường có tính chất giới thiệu, điểm sách nên không tránh khỏi hạn chế, mong bạn đọc lượng thứ. Chúng tôi chỉ hy vọng cuốn sách ghi nhận và làm chứng cho một vài phương diện của đời sống văn hóa, văn học những năm gần đây. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban biên tập các báo nói trên.”Huỳnh Như PhươngPhê Bình Văn Học Việt Nam Hiện ĐạiPhê bình Văn học Việt Nam hiện đại của Trịnh Bá Đĩnh trình bày những vấn đề cốt yếu đời sống lý luận phê bình văn học Việt Nam hiện đại và đương đại Phương pháp phê bình và lịch sử phê bình, việc kế thừa di sản lý luận phê bình truyền thống và tiếp thu các trào lưu lý luận nước ngoài, các hiện tượng còn gây tranh cãi, quan điểm mới về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, văn học và ngôn ngữ, nhà văn và độc giả. Cuốn sách cần thiết đối với những nhà hoạt động văn hóa văn nghệ và bạn đọc yêu mến, quan tâm đến văn Bình Kí Hiệu Học – Đọc Văn Như Là Hành Trình Tái Thiết Ngôn NgữTrên thế giới, kí hiệu học đã được nghiên cứu như là khoa học về kí hiệu từ đầu thế kỷ XX, và sau đó nó phát triển rầm rộ, lan rộng và được vận dụng ở khắp các nước từ Nga qua Mĩ, từ Tây Âu đến Đông Âu. Ở Việt Nam, kí hiệu học được khởi xướng bởi nhà nghiên cứu Phan Ngọc, Hoàng Trinh, tuy nhiên, mãi những năm gần đây, kí hiệu học mới được dịch và ứng dụng như một lí thuyết bởi các nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, Lã Nguyên… Với mục đích đưa phê bình kí hiệu học đến gần và “dễ hiểu” hơn với độc giả, như một cách tiếp cận mới để tìm ra cái hay, cái đẹp của văn học nghệ thuật, đem đến đời sống tinh thần phong phú cho độc giả, NXB Phụ nữ xin giới thiệu với bạn đọc cuốn Phê bình kí hiệu học – Đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ của nhà phê bình Lã bình kí hiệu học của Lã Nguyên là cuốn sách phát hiện lại lí thuyết trên một chất liệu mới là các tác phẩm văn học Việt Nam, tác giả hướng đến việc tái cấu trúc các hệ thống ngôn ngữ đặc thù làm nên các loại hình diễn ngôn trong văn học nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử và trong sáng tác của một số nhà văn, nghệ Khu Vực Văn Học Ngoại BiênCuốn sách này nghiên cứu các vấn đề văn học nổi lên trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI. Văn học ngoại biên, là những khu vực “không an toàn”, hiểu theo nhiều nghĩa. Tuy nhiên đây cũng là khu vực năng động nhất của văn hóa, là không gian cởi mở nhất cho sự nảy sinh những khả thể khác, cho sự giải cấu trúc những chuẩn mực, quy phạm. Không gian ngoại biên ấy hiện diện ở mọi thời đại văn hóa và ở thời đại nào, nó cũng dung nạp những sự lệch chuẩn, thách thức, khiêu khích nhưng cũng chính vì thế, nó luôn tiềm tàng sức sống, là không gian của văn hóa trẻ, là môi trường của nhiều cách tân, đột Luận & Phê Bình Văn HọcTiểu luận và phê bình văn học là cuốn sách vừa mới ra mắt bạn đọc tháng 9 năm 2011, tập hợp những bài viết trong mấy năm gần đây của GS Mai Quốc Liên. Chủ đề là văn hóa dân tộc, văn học hiện thời, và những suy ngẫm về các hiện tượng văn hóa – văn học những trăn trở, những lo nghĩ về tình hình văn hóa – văn nghệ hiện thời “Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn” Người biết chữ thì nhiều lo nghĩ – Nguyễn Trãi. Nhân vật, đối tượng được đề cập trong cuốn sách là những con người một đời miệt mài với sự nghiệp văn hóa – văn nghệ, cho lý tưởng yêu nước, yêu dân…Cuốn sách gồm hai phần, phần I, Phê bình – trao đổi gồm các bài viết chân dung văn học và những cuộc chuyện trò thân mật với các học giả nước ngoài về văn học, về đất nước, con người Việt Nam…. Phần II Tiểu luận là phần thể hiện rõ nhất những trăn trở, suy tư, ngẫm nghĩ của GS về văn hóa – văn nghệ nước nhà trong giai đoạn hiện Phương Pháp Của Ngôn Ngữ Học Cấu TrúcCuốn sách này trình bày những phương pháp được sử dụng trong ngôn ngữ học miêu tả, hay nói cho đúng hơn, là ngôn ngữ học cấu trúc. Như vậy, nó nhằm thảo luận về những thủ pháp mà nhà ngôn ngữ học có thể thực hiện trong quá trình nghiên cứu nhiều hơn là đề ra một lý luận về những cách phân tích cấu trúc tính có thể rút ra từ những cuộc nghiên cứu phương pháp nghiên cứu được sắp xếp dưới dạng thức những thao tác phân tích procedures of analysis kế tiếp theo nhau mà nhà ngôn ngữ học dùng để xử lí các cứ liệu của mình. Chúng tôi hi vọng rằng lối trình bày các phương pháp dưới dạng thức và theo trình tự từng thao tác có thể góp phần giảm bớt cái ấn tượng ảo thuật và phiền phức thường đi đôi với những cách phân tích ngôn ngữ học tế nhị Nam Thi Ca Luận Và Văn Chương Xã HộiVới Lương Đức Thiệp, Văn học là sản phẩm và vũ khí của đấu tranh đẳng cấp. Văn chương dùng để gieo rắc những ý tưởng vào ý thức dân chúng. Xung đột đẳng cấp càng gắt gao, thì “vũ khí” phải càng sắc bén. Dù văn sĩ “lẻ loi” và “vô tư” đến đâu cũng phải chịu sức chi phối âm u của quyền lợi đẳng với Thi ca, cái áo thi sĩ phải mặc cho thi ca phải nhuộm bằng màu tươi thắm của cảm tình và giặt bằng linh hồn trong trắng của thi nhân. Và muốn ngăn Thi ca khỏi đi hoang sang bờ bến khác, thi sĩ phải lấy ý chí mà định một khu vực độc lập cho thi ca. Được thảnh thơi trong vườn Nghệ thuật, thi ca sẽ ra những đóa hoa vẹn Sắc Hương!…Việt Nam Thi ca luận và Văn chương xã hội không chỉ là xem thời thế luận thi ca, xem thi ca mà luận thi sĩ, xem xã hội mà luận văn chương, xem văn chương mà luận văn sĩ, mà Lương Đức Thiệp còn đưa ra những phương pháp luận về thi ca cùng thi sĩ, những phân tích thấu đáo về nhà văn và tác phẩm, những nhận định rất đúng đắn về văn chương và xã hội. Bằng những phương pháp suy luận lý tính, bằng những cảm nhận rất trực quan, bằng những lý luận rất sắc bén, cộng thêm sự sùng bái Việt ngữ, tôn thờ những giá trị dân gian, Lương Đức Thiệp đã vạch ra được cho người đọc đang rối mù trong rừng thi ca chủ nghĩa một con đường sáng, đưa ra được những kết luận về văn chương và thời cuộc, cùng những bình luận rất khách quan về đặc tính cá nhân của từng nhà văn và đẳng cấp của họ, mong xây dựng một lâu đài văn học nguy nga, góp phần dựng lên nền quốc học nước nhà vững Nhân Việt NamHơn nửa thế kỷ trước đây, phong trào Thơ mới đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền văn học trước Cách mạng tháng Tám của đất nước. Các thi sĩ của thuở ấy đã đem lại cho bạn đọc một tiếng nói mới, phản ánh khá trung thực tâm trạng của cả một lớp thanh niên tiểu tư sản trong cuộc sống có nhiều đau buồn, trăn trở và đôi khí bế tắc trước hiện trạng của đất nước thời bấy giờ. Với sự đổi mới mạnh mẽ của hình thức nghệ thuật. Thơ mới thực sự đã thu hút được sự chú ý của khá đông đảo bạn đọc yêu thơ và đó cũng là một đóng góp có ý nghĩa vào sự phát triển của thể loại và chứng minh khả năng biểu đạt phong phú của tiếng lúc bấy giờ hai tác giả Hoài Thanh và Hoài Châu đã sớm nhận ra giá trị ấy đã kịp thời sưu tầm, giới thiệu các thành tựu của phong trào Thơ mới qua tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” và đã cho xuất bản vào đầu năm 1942.“Thi nhân Việt Nam” là sự khám phá và đánh giá đầu tiên đối với Thơ mới. Chúng ta đều biết việc lựa chọn tác phẩm và tác giả đương thời, nhất là những người mới xuất hiện trên văn đàn, là một việc làm hết sức khó khăn, nhưng với sự cảm thụ khá sâu sắc và cái nhìn tinh tế, các tác giả đã chọn được một chùm hoa giàu hương sắc trong vườn thơ mới đã gửi tặng những người yêu thơ. Chính vì thế “Thi nhân Việt Nam” đã được bạn đọc cả nước đón nhận và tán thưởngTố Hữu – Tác Phẩm Và Lời Bình“Ai đó nói rằng những bài thơ hay luôn có cách để tìm được nơi lưu trú trong trái tim con người. Kinh thi vẫn được khôi phục lại bằng trí nhớ của nhân dân cho dù Tần Thủy Hoàng bao lần tìm cách thiêu chúng trong lửa. Truyện Kiều vẫn được nhân dân thuộc lòng và có thể đọc ngược từ câu cuối đến câu đầu. Ca dao dân ca vẫn nằm lòng từ ngàn đời trong trí nhớ của cả những người không biết chữ Trong chừng mực nào đó, nếu trong muôn một, văn bản thơ Tố Hữu bị biến mất, có thể những người cùng thời với ông sẽ tìm cách khôi phục lại từ trí nhớ của họ một cách không đến nỗi khó khăn lắm Cũng như thơ của bất cứ nhà thơ nào khác, thơ Tố Hữu cũng đang chịu sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian. Thời gian sẽ vượt qua những gì không phù hợp và biết cách giữ lại những gì đã làm xúc động sâu sắc trái tim mỗi con người.”Lê Thành NghịThơ Mới – Những Chuyện Chưa Bao Giờ CũThơ mới 1932-1945 – “Một thời đại trong thi ca” – cho đến nay vẫn còn ẩn chứa biết bao sự kiện, bao nhiêu khía cạnh, bao nhiêu mảng màu và chi tiết thú vị. Để đánh giá toàn cảnh bức tranh lịch sử phong trào Thơ mới đòi hỏi phải tìm trở lại những tài liệu nguyên gốc, những tiếng nói ban sơ, chân thực, trực cảm, trực giác, trực diện, trong đúng không khí, môi trường, cảnh quan, sinh quyển và thực sự là tiếng nói của “thời Thơ mới bàn về Thơ mới”.Cuốn sách Thơ Mới – Những Chuyện Chưa Bao Giờ Cũ – Người đương thời Thơ mới bàn về tác gia Thơ mới của Nguyễn Hữu Sơn tập hợp lại những đánh giá của “người đương thời Thơ mới” về 12 tác giả tiêu biểu đã xuất hiện và làm nên hồn cốt phong trào Thơ mới Đông Hồ, Nam Trân, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê, Huy Thông, Nguyễn Bính, Huy Cận, Chế Lan Viên. Đây là công trình sưu tập, khảo luận, luận bình, giới thiệu đồ sộ và có giá trị tư liệu Lưới Bắt ChimGiăng lưới bắt chim là một tập hợp những bài tạp văn, tiểu luận, phê bình, giới thiệu và ghi chú của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã đăng rải rác trên các báo, tạp chí và mạng Internet từ năm 1988 đến năm 2006. Cuốn sách đã được Nhà xuất bản Hội nhà văn và Công ty Đông A in, tái bản 2 lần. Năm 2006, cuốn sách được Hội nhà văn Hà Nội trao giải thưởng về thể loại sách phê bình, tiểu Vị Học Và Tuyến Tính – Suy Nghĩ Về Các Định Đề Của Âm Vị Học Đương ĐạiCuốn sách này là một bản dịch từ nguyên văn cuốn “Phonologie et linéarité” viết xong năm 1980 và xuất bản năm 1985 ở Paris do Hội Nghiên cứu Ngôn ngữ học và Nhân loại học Pháp quốc SELAF…Nội dung chủ yếu của cuốn sách vốn là một luận đề phê phán những định kiến sai lầm đã vô hình trung lọt vào những nguyên lý làm cơ sở cho lý thuyết âm vị học cổ điển vốn chỉ phản ánh cách tri giác đặc thù của những người bản ngữ tiếng châu Âu, mong tìm ra những nguyên lý thực sự ngôn ngữ học và những thủ pháp hữu hiệu làm cho âm vị học có được tính phổ quát đích thực. Trong khi làm như vậy dĩ nhiên người viết phải soát kĩ toàn bộ vốn tri thức và phương pháp của âm vị học đương đại, kể cả những điểm sơ đẳng nhất, cho nên tôi hy vọng cuốn sách sẽ có ích cho cả những người không chuyên, dù đó là những người không tán thành quan điểm của tác giả ngay từ đầu…Lịch Sử Văn Học Anh QuốcMichael Alexander là giáo sư văn chương của Viện Đại Học S. Andrews. Ông vừa là nhà thơ vừa là dịch giả, đồng thời là người có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm môn văn chương Anh quốc, cả cổ văn lẫn kim văn, tại các trường đại học châu Âu.“Lịch sử văn học Anh quốc của giáo sư Alexander là một tác phẩm đứng đắn được trình bày sáng sủa, dễ hiểu, và có sức thuyết phục. Đây là một công trình nghiên cứu văn học tỏ ra hết sừc đắc dụng đối với sinh viên, giáo viên và các độc giả phổ thông, cũng như đối với những người muốn truy tìm tư kiệu tham khảo. Tuy nhiên, trên tất cả những điều ấy, đây chính là một thành tựu của lý trí và óc phê bình, nhưng lại không hề mang tính cách cao siêu hay xa lạ.”Chris Wallace Crabbe, giáo sư Viện Đại Học Melbourne – AustraliaNguyễn Nhật Ánh – Hiệp Sĩ Của Tuổi Thơ“Tập sách là kết quả nghiên cứu bước đầu của một số tiếng nói trong giới phê bình nghiên cứu, giảng dạy văn học, của một số nhà văn có chung niềm đam mê sáng tác cho thiếu nhi – những người “đồng bệnh” với nhà văn Nguyễn Nhật chỉ là những tiếng nói đầu tiên về Nguyễn Nhật Ánh, nên chúng chỉ là những phác thảo mang tính nhận diện, đối thoại, gợi dẫn, đặt trong nhiều tiếng nói trân quý hiến của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đang còn tiếp tục. Công cuộc nghiên cứu, phê bình, giảng dạy và quảng bá về Nguyễn Nhật Ánh vẫn còn tiếp tục. Quyển sách này như một lời tri âm, tri ân đối với nhà văn. Cũng lại như tri âm với tất thảy độc giả thuộc nhiều thế hệ đã đọc và rồi sẽ đọc Nguyễn Nhật Ánh.”PGS. TS, Nhà nghiên cứu phê bình văn học Văn GiáCuộc Phiêu Lưu Của Những Cái TôiĐây là một quyển sách được viết dựa trên các bài phỏng vấn của nhà báo, nhà văn Phong Điệp với các nhà văn, nhà phê bình trẻ hiện nay. Qua các bài phỏng vấn này người đọc sẽ hiểu hơn về quan niệm sáng tác của những nhà văn mà mình mến mộ, hiểu hơn về sự vận động, chất lượng của Phê bình văn học trong giai đoạn hiện nay để điều còn lại chúng ta nhận ra viết văn chính là sự phiêu lưu của những cái tôi. Một sự phiêu lưu đầy thú vị. Qua quyển sách bạn sẽ có thêm những định hướng cho niềm đam mê của Bình Văn Học Thế Kỷ XXPhê Bình Văn Học Thế Kỷ XX của Thụy Khuê, cho đến thời điểm này, là công trình tiếng Việt đầu tiên và duy nhất thực hiện tham vọng lớn lao thuật lại con đường đi của những trào lưu phê bình văn học lớn trong thế kỷ phát từ nguồn gốc với người thầy cổ đại Aristote, tác giả đi qua phê bình lịch sử và thực chứng, qua phê bình phân tâm học củaFreud, tới cha đẻ của nền phê bình hiện đại – de Saussure, trường phái Hình thức và Cấu trúc của Nga với Bakhtin, xã hội học văn chương với LeoSpitzer, phương pháp so sánh của Auerbach, phê bình Ý thức với Raymond và Poulet, phê bình phân tâm hiện sinh của Sartre, phân tâm vật chất của Bachelard, trường phái bác ngữ học Đức, lý thuyết Ký hiệu học của Eco và Barthes, và dừng lại ở câu chuyện Hậu hiện đại thực chất là những lý giải cặn kẽ, những đúc kết giàu tính khoa học và có hệ thống chặt chẽ, được trình bày trong một lối viết sáng tỏ và hấp dẫn, cuốn sách cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về phê bình văn học trên thế giới, cùng những liên hệ sát sao đến đời sống phê bình văn học Việt Nam. Một cuốn sách dường như không thể bỏ qua bởi những người say mê, muốn tìm hiểu sâu sắc về văn chương, bởi, nói như Thụy Khuê “Khi cả người viết lẫn người đọc, cùng hiểu rõ hành động viết và tác động của chữ nghĩa, thì con đường phát triển văn chương nghệ thuật sẽ trở thành đại lộ.”Lược Khảo Văn Học III – Nghiên Cứu Và Phê Bình Văn HọcTrong những năm 1963-1968, NXB Nam Sơn ở Sài Gòn đã ấn hành bộ sách Lược khảo văn học của Nguyễn Văn Trung, gồm ba tập Những vấn đề tổng quát, Ngôn ngữ văn chương và kịch, Nghiên cứu và phê bình văn học. Là tài liệu tham khảo của sinh viên Đại học Văn khoa và Đại học Sư phạm, bộ sách này sớm được Trung tâm Học liệu thuộc Bộ Giáo dục tái bản ngay sau khi ra Giáo sư Triết học, Nguyễn Văn Trung có điều kiện đi sâu tìm hiểu và vận dụng thành tựu của những trào lưu mỹ học đương thời phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, tiểu thuyết mới, phê bình mới, lý thuyết tiếp nhận. Bộ sách giúp độc giả làm quen với tên tuổi và quan niệm của những học giả nổi tiếng ở phương Tây F. de Saussure, R. Jakobson, G. Lanson, Sartre. Có thể nói, cho đến thời điểm ấy ở nước ta, đây là bộ sách lý luận văn học cập nhật những tư tưởng hiện đại một cách hệ thống ý hướng góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra từ lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Văn Trung đã liên hệ lý thuyết với thực tiễn văn học dân tộc và bước đầu đưa ra những gợi ý cho người sáng tác, phê Mới Và Phát Triển Phê Bình Văn Học, Nghệ Thuật Việt Nam Hiện NayCuốn sách được chia làm ba chươngChương 1 Phê bình và những yếu tố ảnh hưởng đến phê bình văn học, nghệ thuật hiện 2 Phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay – thực trạng và nguyên 3 Dự báo tình hình và những giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới, phát triển phê bình văn học, nghệ thuật hiện Mắt TôiTrương Chính từng nói “Nhiệm vụ nhà phê bình không những là phải biết lựa lọc để tìm nâng giấc những tài năng mới phát triển, và đánh đổ những định kiến thiên lệch, những dư luận sai lầm, những lời bình phẩm nông nổi của một số người đối với những kiệt tác. Nhà phê bình còn phải trừ thải những cây bút không tương lai, sắp đặt lại thứ bực đích đáng cho các nhà văn.”Dưới mắt tôi được Trương Chính viết năm 23 tuổi, cái tuổi đủ ngạo khí để nói lên những quan niệm văn chương của mình, đủ dũng khí để phản biện lại những quan điểm không giống mình, đủ cả tinh thần và khí lực để chiến đấu mở cho mình một con đường mới trong địa hạt văn chương. Nhiều người đọc sẽ rất thích Trương Chính vì quan điểm ấy, cũng như cái cách ông thẳng thắn trong phê bình văn chương. Cái cách ông ước định tương lai và bút lực của nhà văn, cái cách ông dùng từ phũ phàng, hoặc cả cái cách đánh giá khắt khe, trắng phớ khen chê. Tôi nghĩ, đây là một câu hỏi thuộc loại bản thể luận. Loại câu hỏi này, lời hỏi chỉ là một, nhưng lời đáp thì có thể là nhiều, thậm chí rất nhiều. Mỗi thế hệ người cầm bút đi qua đều để lại câu trả lời của mình như những thổ dân Úc lưu lại bàn tay họ trên vách đá, khác với người đến trước và cả người đến sau. - eVăn "Phê bình văn học là gì?" là tiểu luận mới nhất và tâm đắc của Đỗ Lai Thúy. Tác giả đã âm thầm viết nó trong năm 2003, khi mà trên báo chí liên tiếp xảy ra các cuộc bút chiến xung quanh một số tác phẩm cụ thể - nhất là các bài thơ. Đỗ Lai Thúy rất không vừa ý với các cuộc phê bình này, đúng hơn, ông không vừa ý với "cách người ta phê bình"chúng. Theo ông, những cuộc tranh cãi ầm ĩ và vô bổ đó là minh chứng cho sự thiếu vắng một cái nhìn học thuật về phê bình văn học. Trong “Phê bình văn học là gì?”, Đỗ Lai Thúy trình bày những luận điểm cốt yếu nhất của ông về phê bình, những luận điểm mà ông tự đúc rút từ những kinh nghiệm cá nhân và “kinh nghiệm gián tiếp” qua việc nghiên cứu các học giả thế giới. Còn với riêng mình, như Đỗ Lai Thúy tâm sự, “Phê bình văn học là gì?” trước hết là sự tự nhận thức về chính bản thân ông với tư cách nhà nghiên cứu văn hãy tự hiểu chính ngươi! Socrate[1] 1Phê bình văn học là gì? Tôi nghĩ, đây là một câu hỏi thuộc loại bản thể luận. Loại câu hỏi này, lời hỏi chỉ là một, nhưng lời đáp thì có thể là nhiều, thậm chí rất nhiều. Mỗi thế hệ người cầm bút đi qua đều để lại câu trả lời của mình như những thổ dân Úc lưu lại bàn tay họ trên vách đá, khác với người đến trước và cả người đến sau. Và mỗi người lại có thể có câu trả lời không giống với những người cùng thế hệ mình. Tùy vào truyền thống văn hóa và tài năng cá nhân. Những tiếng đáp khác nhau ấy không loại trừ nhau hoặc loãng tan vào hư không, mà được thời gian xâu lại thành một chuỗi. Tự thân, chắc nó không phải là chân lý, là đạo, nhưng là một con đường không có điểm cuối dẫn đến chân lý. Phê bình văn học có thể hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa thông tục của ngôn ngữ thường nhật hay nghĩa hẹp, nghĩa chuyên môn của khoa học văn học. Theo nghĩa thứ nhất, phê bình chỉ bất kỳ một sự khen chê, bình phẩm, đánh giá nào đó về một tác phẩm, một sự kiện văn học, một tác giả, từ vi mô một nhãn tự, một câu văn, một dòng thơ đến vĩ mô một sự nghiệp sáng tạo, một nền văn học dân tộc. Nó có thể chỉ là một lời nhận xét thông thường thoát ra từ cái miệng bình dân của con nhà khó, nhưng cũng có thể là những phương châm, những nguyên lý chỉ đạo văn chương từ một ý thức hệ triết học hoặc thẩm mỹ nào đó dội xuống giống lời thánh truyền, như lời Khổng Tử[2] về Kinh Thi, lời Aristote[3] trong Thi pháp học... Phê bình văn học ở nghĩa này là kẻ song sinh với sáng tác, có sáng tác là có phê bình. Và sáng tác thì khó còn phê bình thì dễ. Phê bình theo nghĩa rộng thường chỉ biết đến tác phẩm. Một thứ tác phẩm không có liên lạc gì đến tác giả và người đọc. Và người phê bình văn học đứng ngoài hệ thống văn học này. Hơn nữa, khi nhận xét tác phẩm, người phê bình thường cũng chỉ coi đó là một cái cớ để phát biểu những ý kiến chủ quan của mình, thoảng hoặc nếu có chiếu cố đến tác phẩm thì cũng chỉ để so sánh nó với những nguyên lý đã được định trước, những lời chỉ dạy của thánh hiền, những khuôn vàng thước ngọc của cổ nhân. Bởi vậy, phê bình này rất chú trọng đến ý nghĩa đạo đức của tác phẩm văn học, đôi khi có để mắt tới một cạnh khía nghệ thuật nào đó của nó thì cũng chỉ là để đối chiếu với những quy phạm ngặt nghèo của thể tài, cũng là một thứ đạo đức khác, đạo đức thể loại. Phê bình văn học theo nghĩa chuyên môn thì mãi đến đầu thế kỉ XIX, khi nhân loại đã bước vào Thời đại Mới, mới xuất hiện ở châu Âu. Đó là một loại hình sinh hoạt văn học gắn liền với văn hóa đô thị. Phê bình này ra đời trên cơ sở báo chí và xuất bản. Chính báo chí đã biến sách vở với tư cách là sản phẩm văn hóa từ một thứ văn hóa quà tặng thành văn hóa hàng hóa. Xưa, một bài thơ, một bài văn được tác giả viết ra trước là để cho mình di dưỡng tinh thần, sau mới để cho người thưởng thức và học tập thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo mà! Nhưng cái “người” ấy cũng chẳng được bao lăm, chỉ gồm có những thân nhân và bè bạn. Người ta chép tay hoặc thuê chép, hoặc khắc in một số bản để làm quà tặng cho nhau. Số người đọc rất hạn chế. Chỉ những người “đặc tuyển”. Nay nhờ máy in và báo chí, thơ văn được xuất bản hàng loạt, đến tay tất cả mọi người, bất kể giàu sang hay nghèo hèn, miễn bỏ tiền ra là mua được. Số người đọc là bất cứ ai này đông dần lên trở thành công chúng. Công chúng lại đẻ ra dư luận. Và dư luận, đến lượt nó, tác động đến không chỉ nội bộ người đọc, mà, như một thông tin ngược, đến cả người viết, kích thích anh ta sáng tạo tiếp tục. Nhưng còn một nguồn kích thích nữa không kém quan trọng là vật chất. Người sáng tác còn được hưởng tiền nhuận bút, thêm thu nhập để tái sản xuất sức lao động đầu óc, thậm chí có thể sống được bằng ngòi bút. Nghề văn ra đời. Từ đây, nhà văn cùng với các nhà khác như bác sĩ mở phòng khám tư, giáo viên tư thục, luật sư mở văn phòng riêng, nghệ sĩ hát rong... tạo thành một lớp trí thức độc lập, sống ngoài bộ máy nhà nước, khác hẳn với tầng lớp trí thức thư lại trước đấy. Xã hội công dân với tư tưởng dân chủ hình thành. Tư tưởng dân chủ là nền tảng tinh thần của phê bình văn học. Nó thừa nhận mọi công dân đều có quyền phê bình, tức quyền có ý kiến riêng của mình. Trước đây chỉ một thiểu số nào đó mới có cái quyền ấy, còn đa số chỉ có quyền được / chịu sự phê bình. Điều này đã hình thành một tâm thế, một khuôn mẫu suy nghĩ. Chả thế, ở Việt Nam, mãi đến tận năm 1941, khi phê bình văn học theo nghĩa hẹp, dĩ nhiên đã rất phát triển, mà Hoài Thanh, một nhà phê bình nổi tiếng, vẫn chưa rũ bỏ được tâm thế đó, còn rất ngỡ ngàng với cái quyền vừa giành được của mình, nên ở cuối Thi nhân Việt Nam, ông còn Nhỏ to tâm sự “Quyển sách này ra đời, cái điều tôi ngại nhất là sẽ mang tên nhà phê bình. Hai chữ phê bình sao nghe nó khó chịu quá! Nó khệnh khạng như một ông giáo gàn. Bình thì cũng còn được. Nhưng phê? Sao lại phê?”. Ăn cơm mới nói chuyện cũ chẳng qua là để thấy rằng, sự ra đời của phê bình văn học nói chung và đặc biệt ở Việt Nam khó khăn đến như thế nào! Nhưng, như một hạt mầm, một khi đã trồi lên được khỏi mặt đất, được tiếp xúc với ánh sáng và khí trời, thì không gì ngăn nổi sự thành cây của nó. Phê bình văn học từ đây tôi dùng từ này chỉ theo nghĩa chuyên môn giờ đây không còn là phê bình quyền uy nữa. Khẩu khí độc thoại, phán truyền, rao giảng cũng chẳng còn. Phê bình trở thành cuộc đối thoại bình đẳng của thứ quyền lực mới, quyền lực của trí tuệ. Nói theo kiểu Alvin Toffler, ở phê bình văn học cũng xảy ra hiện tượng “chuyển đổi quyền lực”. Nếu trước đây quyền lực của phê bình là quan chức Miệng người sang có gang có thép, là thân tộc Cá không ăn muối cá ươn, Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư, là tuổi tác Bảy mươi phải nghe bảy mốt và gần đây là đồng tiền Mạnh vì gạo, bạo vì tiền; Nén bạc đâm toạc tờ giấy, thì ngày nay là tri thức, là trí tuệ. Ai giàu hiểu biết hơn, ai có đầu óc hơn thì người đó có uy tín hơn, có sức thuyết phục hơn. Phê bình, bởi thế, trở thành một sinh hoạt trí thức. Một đảm bảo khác cho phê bình văn học trở thành một sinh hoạt trí thức lành mạnh là trình độ phát triển của ý thức cá nhân. Văn hóa đô thị giải phóng con người khỏi tư cách thành viên cộng đồng để trở thành một cá nhân độc lập, ý thức được giá trị tự thân của mình trong sự tôn trọng và đối lập với những cá nhân khác trong xã hội. Nhà phê bình của ý thức tập đoàn do chưa có ý thức cá nhân làm cơ chế tự điều chỉnh, nên một khi giành được quyền phê bình thì rất dễ lạm dụng cái quyền đó, “tham ô” sang cả quyền của người khác. Còn nhà phê bình có ý thức cá nhân phát triển cao là một người biết được cái giới hạn quyền của mình và của người khác. Dám nói về người khác là dám chịu trách nhiệm về lời nói của chính mình. Bởi, phát ngôn về người khác là một kiểu phát ngôn về chính mình. Ý thức cá nhân phát triển khiến người ta dám nói, dám bày tỏ ý kiến của mình trước công chúng, nhưng, quan trọng hơn, ý thức cá nhân còn buộc nhà phê bình nhiều khi phải vượt qua tư cách con người để tiến đến tư cách nhà phê bình, tức khước từ phán đoán về một tác phẩm văn chương theo thị hiếu chủ quan của mình, để tuân theo những tiêu chuẩn riêng thuộc văn học, bất chấp những quyền uy. Như vậy, nhà phê bình phát ngôn không nhân danh bản thân anh ta, mà nhân danh một ý thức thẩm mỹ nào đó mà anh ta là đại diện. Người đối thoại với anh ta cũng vì một ý thức thẩm mỹ khác mà tranh luận lại. Phê bình văn học, vì thế, không còn là chuyện cá nhân, không có vấn đề “ai thắng ai” muôn thuở, mà là một cuộc đối thoại thẩm mỹ theo đúng thuần phong mỹ tục để thúc đẩy văn chương dấn thân vào những cuộc phiêu lưu tìm những giá trị thẩm mỹ khoa học muốn trở thành khoa học phải có một đối tượng riêng, một phương pháp nghiên cứu riêng. Vậy đối tượng của phê bình văn học là gì? Theo tôi, đó là tác phẩm. Người ta có thể phê bình một tác giả, một hiện tượng văn học, thậm chí một thời đại văn học, nhưng cơ sở của tất cả các phê bình trên vẫn là phê bình tác phẩm. Bởi, tác phẩm “bầu” nên nhà văn, gây thành hiện tượng, tạo ra những thời đại văn chương. Như vậy, tác phẩm vừa là ga đi mà cũng là ga đến của phê bình văn học. Tác phẩm văn học từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu không chỉ của phê bình văn học, mà còn của nhiều khoa học xã hội và nhân văn khác. Điều này cũng không có gì là khó hiểu. Với tư cách là một hiện tượng văn hóa thẩm mỹ xuất hiện trong một thời đại nhất định, tác phẩm văn học trong mắt các thế hệ sau sẽ là một tài liệu lịch sử, một tượng đài của các tư tưởng xã hội, một hiện thân của tâm lý dân tộc, một thành tựu của tư tưởng mỹ học, tư tưởng văn học... Tùy theo từng mục đích của mình, mỗi ngành khoa học đều rút tỉa từ tác phẩm văn học cạnh khía này hay cạnh khía khác của nó. Nhưng, xét cho cùng, tác phẩm văn học với các khoa học ấy bao giờ cũng chỉ là một tài liệu, một phương tiện trong thế đối lập với một nghệ thuật và một cứu cánh. Chỉ riêng với phê bình văn học, tác phẩm mới là một tồn tại tự thân, một mục đích nghiên cứu thực sự. Bởi vậy, đối với phê bình, việc xác định thế nào là tác phẩm văn học có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Và, vì mỗi trường phái và phương pháp đều có những cách hiểu khác nhau ít hoặc nhiều về tác phẩm văn học, nên ở đây tôi chỉ trình bày một quan niệm chung và cố gắng nắm bắt được sự vận động của nội hàm khái niệm này. Văn học, trước hết, là một loại hình nghệ thuật, là nghệ thuật ngôn từ. Tác phẩm văn học, do đó, là một sáng tạo ngôn từ. Có thể nói, sáng tạo là một đặc tính người. Chỉ có con người mới có sáng tạo. Con vật còn là tự nhiên, còn hoạt động theo bản năng nên không thể có sáng tạo, dẫu đôi khi chúng khéo léo hơn cả con người. Người vừa là tự nhiên, vừa vượt thoát khỏi tình trạng tự nhiên bằng cách cấp cho sự vật một ý nghĩa. Thế giới này chỉ thực sự tồn tại với con người khi nó được lấp đầy bằng các ý nghĩa. Đó là hành động sáng tạo. Sáng tạo thể hiện tự do của con người. Khi sáng tạo, hoặc khi đứng trước một sáng tạo, con người cảm thấy mình khác vạn vật, không còn giống nhiên giới nữa, thậm chí có thể cải biến thiên nhiên theo ý hướng sáng tạo của mình. Tác phẩm văn học là một sáng tạo. Từ những vật-liệu-chữ hữu hạn và bất định, nhà văn tạo nên tác phẩm. Thậm chí, vô vàn tác phẩm. Sáng tác văn học thể hiện một khả năng khai thác vật liệu không cùng, khả năng làm ra cái mới, cái độc sáng. Tác phẩm văn học chỉ neo được vào thời gian khi nó thực sự là sáng tạo, sáng tạo tới mức trở thành độc đáo, thậm chí độc nhất. Một sáng tạo như vậy sẽ không bao giờ mèm cũ, hay nói khác, cạn kiệt thông tin. Mỗi thế hệ đi qua, soi mình vào đó, đều tìm ra một nghĩa mới, của mình. Cũng cần phải nói thêm, tác phẩm văn học là một sáng tạo của trí tưởng tượng, là cái tưởng tượng. Nó không nhằm mô phỏng, thể hiện thế giới thực, mà tạo ra một thế giới không có thực tồn tại song hành với thế giới thực, dù bao giờ nó cũng được xây cất từ những vật liệu thực. Nhờ có sản phẩm tưởng tượng này mà cuộc sống thực được tiếp diễn trong cái nhịp sống phong phú, liên tục và đi lên của nó. Bởi, mọi sự chiếm lĩnh thực tại đều bao hàm sự vượt qua thực tại để đi vào lĩnh vực của cái tưởng tượng. Tác phẩm văn học là một nghệ thuật. Bởi vậy, nó có cùng những tính chất chung với những loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa, sân khấu, điện ảnh... Nói đến nghệ thuật là nói đến hình thức. Hình thức biến sự hỗn mang của vật liệu thành một trật tự thẩm mỹ, biến sự im lìm của đồ vật thành tác phẩm biết nói. Hình thức chỉ là hình thức khi nó có tính gợi cảm. Hình thức gây ra ở người thưởng ngoạn những rung động thẩm mỹ. Hình thức còn thể hiện một ý hướng thẩm mỹ như là kết quả của ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ và sự tiếp nhận tương ứng của công chúng. Người thưởng ngoạn thấy ở hình thức sự xúc động, quan niệm thẩm mỹ, nỗ lực sáng tạo của người nghệ sĩ và đồng cảm với anh ta. Và, từ đó, cùng anh ta tưởng tượng. Tác phẩm nghệ thuật còn khác đồ vật ở chỗ nó có tính không vị lợi. Một đồ vật được làm ra là để dùng, còn một bức tranh hay một bài thơ được làm ra là để chơi, một hoạt động có mục đích tự tại. Tuy nhiên, tác phẩm nghệ thuật có tính lưỡng thê, bởi đôi khi nó còn được sử dụng như một đồ vật. Nghĩa là người ta không sử dụng giá trị, bình diện ý nghĩa nội tại của nó, mà là giá trị sử dụng, bình diện công năng của nó, để trao đổi, kiếm sống. Nhưng, xét cho cùng, sự để dùng của tác phẩm nghệ thuật chỉ là cái đến sau, cái thứ yếu, phụ thuộc, còn sự để chơi mới là mục đích sống còn của nó. Tác phẩm nghệ thuật đưa người ta vào một thế giới khác với thế giới đời thường, vị lợi. Với các quy tắc trò chơi của mình, tác phẩm nghệ thuật, thỏa mãn một kích thước khác trong con người, kích thước chơi. Bởi, con người, sau khi đã là một động vật kinh tế, một động vật chính trị, còn là một động vật chơi. Văn học với tư cách là một nghệ thuật có tất cả những đặc tính trên. Nhưng văn học khác với âm nhạc, hội họa, kiến trúc,... ở vật liệu kiến tạo hình thức. Nếu vật liệu của âm nhạc là âm thanh, hội họa là màu sắc, điêu khắc là đất đá, thì vật liệu của văn học là ngôn ngữ. Văn học được coi là nghệ thuật ngôn từ là vì vậy. Vật liệu ngôn từ là vật liệu có tính tổng hợp. Nó có âm thanh của nhạc, màu sắc của họa, hình khối của điêu khắc, nhịp điệu của múa. Văn học, nhờ thế, cũng là một nghệ thuật tổng hợp. Hơn nữa, nếu vật liệu của các ngành nghệ thuật trên là vật liệu trơ, tức loại vật liệu trực tiếp lấy từ thiên nhiên, thì ngôn ngữ là vật liệu lấy từ con người, mang tính người. Âm thanh của tiếng nói người là những âm thành mang nghĩa. Con người lại là một động vật tạo nghĩa, nên nó rất chú ý đến nghĩa của từ. Chữ và nghĩa đi liền với nhau, như hình với bóng. Điều này, một mặt, làm cho văn học có vẻ như dễ tiếp nhận hơn các bộ môn nghệ thuật kể trên. Mặt khác, sự chú ý đến nghĩa một cách thái quá này, làm cho người đọc ngộ nhận rằng văn học chỉ là ý nghĩa, chỉ là bóng chữ, nên thường đi thẳng một mạch từ vật liệu ngôn từ đến nội dung tác phẩm, bỏ qua chữ, bỏ qua hình thức. Âu cũng là một kiểu bỏ mồi bắt bóng. Trong khi đó, phương thức tồn tại của nghệ thuật nói chung và của văn học nói riêng, được quyết định bằng và qua hình thức. Hình thức là sự cấu trúc hóa vật liệu theo ý đồ thẩm mỹ của nhà văn, nên hình thức chính là nghệ thuật. Còn nội dung, xét cho cùng, chỉ là một thứ vật liệu, đúng hơn tài liệu, cũng cần được cấu trúc hóa thì mới có thể thoát thai thành nghệ thuật. Hình thức của một tác phẩm văn học là ngôn ngữ, nhưng là thứ ngôn ngữ ở trong tác phẩm, tức ngôn ngữ đã được cấu trúc hóa, còn ngôn ngữ tự vị, ngôn ngữ ngoài tác phẩm thì chỉ là vật liệu. Còn nữaChú thích [1] Socrate 470-399 nhà triết học Hy Lạp, thầy học của Platon. Ông là người mở đầu cho triết học duy lý phương Tây, còn triết học tiền Socrate theo một xu hướng khác. Danh ngôn trên theo một ý kiến khác, không phải là của Socrate, mà là một câu cách ngôn Delphil. Dẫu vậy, nếu câu này ở miệng Socrate nói ra thì vẫn có sức nặng hơn, vẫn làm nổi bật hơn tính duy lý của nó. [2] Khổng Tử 511-479 nhà triết học cổ đại Trung Hoa, sau khi Khổng giáo trở thành ý thức hệ chính thống, thì ông được tôn làm vạn thế sư biểu. Các trước tác hay sách biên soạn của ông, trong đó có Kinh thi, trở thành kinh điển. [3] Aristote 384-322 nhà triết học cổ đại Hy Lạp, học trò Platon. Triết học của ông cùng với Kitô giáo thống trị tư tưởng châu Âu suốt thời trung cổ. Thi pháp học của ông, bởi thế, cũng thống trị tư tưởng văn học châu Âu cho đến Thời đại Mới. [4] Cụ thể hóa thuật ngữ của mỹ học tiếp nhận, chỉ quá trình người đọc tái tạo tác phẩm nghệ thuật bằng cách làm đầy những điểm trống, những vùng bất định của văn bản bằng cảm xúc và ý niệm của mình. Người đầu tiên đề xuất thuật ngữ này là R. Ingarden 1893-1970 nhà nghiên cứu văn học theo hiện tượng luận người Ba Lan, trong cuốn Tác phẩm văn học 1931, Trương Đăng Dung đã dịch một vài chương in trong Văn học Nước Ngoài. [5] Kết cấu vẫy gọi tên tác phẩm của W. Iser, một trong hai người sáng lập minh giải học tức chú giải học hiện đại và mỹ học tiếp nhận, người Đức.

các phương pháp phê bình văn học